Trung Quốc đã rút giàn khoan HD-981 trước kỳ hạn (vốn dự trù vào giữa tháng 8). Có nhiều giả thuyết khác nhau được đưa ra để giải thích quyết định của họ: Một, công tác thăm dò của họ đã hoàn tất; hai, sợ bão; ba, để tránh bị đả kích trong cuộc hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Điễn đàn An ninh Khu vực ASEAN sắp tới; bốn, để tránh bị chính quyền Việt Nam kiện trước Liên Hiệp Quốc; và, năm, tránh sức ép từ dư luận quốc tế, đặc biệt, tránh việc thúc đẩy Mỹ, Nhật và Úc hình thành một liên minh quân sự vừa để giúp Việt Nam vừa để ngăn chận Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông.
Bất kể vì lý do gì, việc Trung Quốc cho rút giàn khoan về nước cũng là việc rất đáng mừng đối với giới lãnh đạo Việt Nam: Họ trút được một gánh nặng rất lớn, không chừng là lớn nhất kể từ sau cuộc chiến tranh ở biên giới Việt Hoa năm 1979. Bởi họ bị áp lực từ nhiều phía:
Với Trung Quốc, chỉ cần một phản ứng hơi quá tay, họ có thể làm bùng nổ chiến tranh, một cuộc chiến tranh chắc chắn họ sẽ thua đậm. Với dân chúng Việt Nam, sự nhượng bộ quá lâu của họ trước sự gây hấn ngang ngược của Trung Quốc sẽ được diễn dịch là một sự đầu hàng, hơn nữa, phản bội. Đó là chưa kể sức ép từ các nước khác, đặc biệt Mỹ và một số quốc gia tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc: Với những nước ấy, sự nhượng bộ hoặc đầu hàng của Việt Nam đều là tai họa đối với quyền lợi của nước họ.
Tránh được gánh nặng ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là Việt Nam có thể ung dung hưởng thái bình. Hầu như chắc chắn là Trung Quốc, một lúc nào đó, sẽ mang giàn khoan sang để tiếp tục thăm dò dầu khí trên Biển Đông, ngay trên thềm lục địa Việt Nam. Một phần, đó là mục tiêu chiến lược của họ. Chắc chắn họ sẽ không từ bỏ mục tiêu ấy. Phần khác, quan trọng hơn, họ biết họ sẽ hoàn toàn an toàn khi làm như thế. Họ có thể an tâm một điều: Dù thế giới có phẫn nộ đến mấy, cũng sẽ không có ai động thủ nếu Việt Nam vẫn giữ thái độ im lặng và bất động như vừa rồi. Trong lịch sử chính trị thế giới, không ai đánh giùm không công cho người khác cả. Thời hiện đại lại càng không. Khi Barack Obama vẫn làm tổng thống Mỹ, với chính sách “lãnh đạo từ phía sau” nổi tiếng của ông, chính phủ Mỹ lại càng không có lý do gì để động binh với Trung Quốc giùm cho Việt Nam cả.
Nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục mang giàn khoan sang thềm lục địa Việt Nam, họ có lợi gì? Họ có một cái lợi lớn: dần dần hợp pháp hóa chủ quyền của họ trên Biển Đông. Ở Việt Nam, người ta hay nói, trong cuộc tranh giành Biển Đông với Trung Quốc, có hai yếu tố quan trọng: lịch sử và pháp lý. Thật ra, cả hai là một: các bằng chứng lịch sử sẽ trở thành những bằng chứng về pháp lý. Người ta tin là nếu Việt Nam đưa ra nhiều tài liệu cổ, bản đồ cổ trong đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam sẽ được xem là có lý hơn. Tuy nhiên, đó chỉ là một ảo tưởng.
Ngoài công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa, còn một vấn đề khác nữa: cái lý bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh. Hầu như ai cũng biết, mọi phán quyết của tòa án quốc tế đều vô hiệu đối với các nước lớn, cỡ như Trung Quốc. Không có một thế lực quốc tế nào có thể bắt buộc Trung Quốc phải tuân theo một án lệnh kiểu như vậy cả.
Trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ, ngoài yếu tố lịch sử và pháp lý, còn có một yếu tố khác: thói quen. Ngay cả khi tất cả các tài liệu lịch sử đều chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam nhưng tàu bè và giàn khoan của Trung Quốc cứ đi lại nhiều lần và Việt Nam không phản đối gì cả, dần dần người ta cũng chấp nhận, dù một cách mặc nhiên, đảo và biển ấy là của Trung Quốc.
Bởi vậy, điều nhà cầm quyền cần làm, và làm thật gấp hiện nay, là chuẩn bị một chiến lược để bảo vệ Trường Sa và Biển Đông. Để có hiệu quả, điều kiện đầu tiên là giới lãnh đạo phải thống nhất với nhau. Trong mấy tháng vừa qua, hầu như tất cả giới quan sát quốc tế đều đồng ý với nhau là ngay cả Bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam cũng còn bị phân hoá nặng nề. Thành ra người ta không có một tiếng nói chung nào cả. Người nói thế này người nói thế kia, cuối cùng, thế giới, và cả dân chúng Việt Nam nữa, cũng không biết là họ thực sự muốn gì.
Điều kiện thứ hai là phải gấp rút tạo thế liên minh với bên ngoài. Một mình Việt Nam chắc chắn không phải là đối thủ của Trung Quốc. Nhiều người, để bênh vực cho chính quyền Việt Nam, thường nêu lên trận chiến biên giới Việt Hoa vào năm 1979, lúc Trung Quốc bị thảm bại. Nhưng đó chỉ là nguỵ biện. Trung Quốc bây giờ không phải là Trung Quốc vào năm 1979 và Việt Nam bây giờ cũng không phải là Việt Nam thuở ấy, lúc tinh thần dân quân đều rất cao và kinh nghiệm chiến đấu của bộ đội Việt Nam còn rất dày dạn, hơn hẳn Trung Quốc. Nhiều nhà bình luận quân sự cho vào năm 1979, cả tướng lẫn quân của Trung Quốc đều không quen trận mạc: cuộc chiến tranh cuối cùng, với họ, đã chấm dứt 30 năm trước, lúc Mao Trạch Đông đánh đuổi được Tưởng Giới Thạch ra Đài Loan vào năm 1949. Với quân đội Việt Nam hiện nay, cũng vậy, chiến tranh đã chấm dứt từ 35 năm trước; chỉ có một số tướng lãnh là có chút kinh nghiệm chiến trường, nhưng lúc ấy, họ lại còn quá trẻ, không biết gì về việc chỉ huy các trận đánh lớn. Ngoài ra, trận đánh trên biển khác với các trận đánh trên đất liền. Trên biển, không ai có thể đánh du kích và cũng không ai có thể sử dụng biện pháp dùng biển người để đánh bại đối thủ. Trên biển, chỉ có một yếu tố chính quyết định thắng thua: kỹ thuật. Mà kỹ thuật trên biển của Trung Quốc hiện nay đã bỏ xa Việt Nam cũng như vô số các nước khác.
Nguyễn Hưng Quốc là người nổi tiếng về các bài nghiên cứu về vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam. Hiện ông đang giảng dạy về ngôn ngữ, văn học, văn hóa và chiến tranh Việt Nam, hiện là giáo sư chủ nhiệm Ban Việt Học tại Đại học Victoria,Úc..Ngoài ra ông là nhà bỉnh bút (giữ một chuyên mục thường xuyên) tại Đài VOA.